- Folder Xác định nguyên nhân ngộ độc
- Views 397
- Last Updated 30/12/2024
Mã tiền được dùng trong nhiều bài thuốc y học cổ truyền, đặc biệt là hạt mã tiền. Hạt có vị đắng, tính lạnh và rất độc, có tác dụng mạnh tỳ vị, thông kinh lạc, tán kết, tiêu thũng, trừ phong thấp và tê bại. Tuy nhiên, khi sử dụng quá liều hoặc ăn nhầm, hạt mã tiền có thể gây ra các triệu chứng ngộ độc là co giật liên tục, co cứng như uốn ván và tử vong vì liệt hô hấp.
1. Tình hình ngộ độc thực phẩm liên quan đến Mã tiền tại Việt Nam
Trong thời gian vừa qua, nhiều địa phương đã có những báo cáo ngộ độc thực phẩm liên quan đến Mã tiền. Trong giai đoạn từ năm 2021-2025, Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia đã tiếp nhận một số báo cáo về ngộ độc thực phẩm liên quan đến mã tiền, cũng như phân tích xác định nguyên nhân như sau:
- Tháng 07/2021, tại tỉnh Quảng Bình, Bệnh viện hữu nghị Việt Nam – Cuba Đồng Hới cấp cứu cho 4 nam thanh niên bị ngộ độc do uống nhầm rượu ngâm mã tiền trong tình trạng nguy kịch, lơ mơ, tím tái, co giật liên tục, sùi bọt mép.
- Tháng 11/2022, tại Sơn La, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La cấp cứu kịp thời một người bệnh nam 56 tuổi trong tình trạng co cứng 2 chân, không đi lại được. Trước đó, người bệnh đã uống rượu ngâm hạt mã tiền (dùng để xoa bóp).
- Tháng 01/2023, tại tỉnh Lào Cai, Bệnh viện Đa khoa huyện Bát Xát cho biết đã tiếp nhận người bệnh nam 38 tuổi trong tình trạng tê bì tay chân, tê cứng miệng sau khi uống nước đun từ hạt cây rừng mua ở chợ để chữa đau bụng.
- Tháng 4/2024, tại tỉnh Lào Cai, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lào Cai đã tiếp nhận ca bệnh của người bệnh nữ 48 tuổi, trong tình trạng tê cứng miệng khi uống nước sắc từ bột hạt mã tiền.
- Tháng 1/2025, tại Hà Nội, Bệnh viện Bạch Mai đã cấp cứu kịp thời một người bệnh nữ uống hạt sang để chữa dạ dày, nhưng cơ sở chế biến đã nhầm hạt sang thành hạt mã tiền, người bệnh có những tổn thương nặng, tiên lượng khó cải thiện, di chứng do ngừng thở, ngừng tim.
Ngộ độc mã tiền xảy ra chủ yếu do người dân uống nhầm rượu xoa bóp có ngâm hạt mã tiền hoặc nhầm lẫn loại hạt ăn được khác (hạt sành – loại hạt dùng chữ bệnh dạ dày và đại tràng).
Theo kết quả phân tích của Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia, các vụ ngộ độc đều được xác định là do hoạt chất gây độc điển hình trong mã tiền gồm Strychnine và Brucine.
2. Đặc điểm, phân bố và triệu chứng ngộ độc
2.1 Đặc điểm, phân bố
Mã tiền có tên gọi khác là củ chi, phiên mộc miết, mắc sèn sứ (Tày), co bên kho, co sét ma (Thái). Tên khoa học Strychnos nuxvomica L., thuộc họ Mã tiền Loganiaceae. Ở Việt Nam, có hai loài được khai thác phổ biến với tên khoa học Strychnos nuxvomica L. và Schychnos sp.
Mô tả cây:
- Cây to, thân đứng cao 5 - 12 m. Cành ngắn, không có móc, đôi khi có gai ở kẽ lá, vỏ màu xám có lỗ ù. Lá mọc đối, hình trứng, gốc tù, đầu nhọn, dài 6 - 12 cm, rộng 3,5 - 8,5 cm, nhẵn và dai, mặt trên màu lục sẫm bóng, gân nổi rõ mặt dưới, cuống lá dài 5 - 10 cm.
- Cụm hoa mọc ở đầu canh thành chùy dài 3 - 5 cm, có 1 - 2 đôi lá có lông mịn; hoa màu trắng hoặc vàng nhạt; cánh hoa 5; nhị 5, đính ở phía trên ống tràng; bầu hình trứng, nhẵn.
- Quả hình cầu, đường kính 3 - 6 cm, vỏ cứng óng, khi chín màu vàng cam hay vàng đỏ, chứa cơm quả màu trắng và 1 - 5 hạt hình tròn dẹt như chiếc khuy áo to, đường kính 2 - 2,5 cm, dày 4 - 5 mm, một mặt lồi, một mặt lõm, có lông mượt óng ánh tỏa đều từ giữa ra, màu xám. Mùa nở hoa, kết quả: tháng 2 - 8.

Hình 1. Bộ phận của cây Mã tiền
(A) – Hoa; (B) – Hạt; (C) – Quả
Mã tiền phân bố tập trung ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á và Nam Á. Ở Việt Nam, mã tiền mọc hoang dại trong các vùng rừng thưa của các tỉnh miền núi phía Bắc như Lào Cai, Sơn La, Cao Bằng.
Hạt mã tiền dễ nhầm lẫn với hạt sành (hạt sang) do hình thức hạt giống nhau và tác dụng của hạt Sành được biết đến trong việc chữa bệnh dạ dày và đại tràng:
Bảng 1. Thực vật dễ nhầm lần với cây mã tiền

- 2.2 Độc tố của cây mã tiền
Hạt của cây mã tiền được sử dụng làm thuốc hoặc làm nguyên liệu chiết xuất. Trong hạt, thành phần gây độc chủ yếu là Strychnine và Brucine. Hàm lượng Strychnine trong hạt chiếm 50% trong số tổng các alkaloid có trong hạt mã tiền.

Hình 2. Độc tố trong hạt Mã tiền
Qua chế biến, thành phần hóa học của mã tiền thay đổi, hàm lượng các alkaloid độc Strychnine và Brucine giảm đi do một phần chuyển thành N-oxyde tương ứng. Mã tiền dùng đúng liều lượng sẽ gây kích thích, tăng trưởng lực cơ và bồi dưỡng cơ thể. Do có độc tính cao nên mã tiền sống chủ yếu được dùng thoa ngoài còn mã tiền chế có thể được dùng dưới dạng thuốc bột hay thuốc sắc. Khi dùng quá liều gây ra các triệu chứng ngộ độc là co giật liên tục, co cứng như uốn ván và tử vong vì liệt hô hấp.
2.3 Triệu chứng ngộ độc
Các triệu chứng lâm sàng xuất hiện sau khi sử dụng hạt Mã tiền khoảng 15 - 30 phút và kéo dài một vài giờ đến nhiều giờ.
Triệu chứng nhẹ: tăng phản xạ gân xương và co cứng cơ tạo thành tư thế người ưỡn cong như bệnh uốn ván, không có co cứng cơ hô hấp và không có suy hô hấp. Biểu hiện trên cơ mặt: cau có, khó chịu và cố định, cơ miệng co kéo bộc lộ hai hàm răng ra ngoài.
Triệu chứng nặng: co cứng cơ hô hấp gây suy hô hấp và tử vong nếu không được xử trí phù hợp.
3. Phòng chống và xử trí ngộ độc mã tiền
3.1. Xử trí ngộ độc
Trong trường hợp phát hiện người bệnh ngộ độc, cần ngay lập tức thông báo cho cơ quan y tế, đưa người bệnh đến bệnh viện kịp thời và chữa các triệu chứng là chủ yếu.
3.2. Dự phòng ngộ độc mã tiền
Đối với các trường hợp nhầm lẫn: dán nhãn phân biệt rượu ngâm thuốc và để rượu ngâm Mã tiền (dùng xoa bóp) ở vị trí cao, ngoài tầm với trẻ em, không để chung với các loại rượu uống được.
Không tự điều trị bằng thuốc nam không rõ nguồn gốc.
Khuyến cáo người dân cảnh giác cao, không nên tự ý hái hoặc lấy các loại quả, hạt mà không rõ các loại độc tính để sử dụng.
Tác giả: Kiều Vân Anh
Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Tất Lợi (2004), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản Y học.
2. Đỗ Huy Bích (2006), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
3. Bộ Y tế (2015), Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí ngộ độc.
4. Trần Công Khánh (2004), Cây độc ở Việt Nam, Nhà xuất bản Y học.




